Tại sao các Quỹ phòng hộ lại mua vàng trong giai đoạn khủng hoảng?
22:47 10/07/2020
Ngay cả khi các Quỹ phòng hộ (Hedge Fund) có cả đống sản phẩm phòng vệ rủi ro sẵn sàng để sử dụng, chẳng hạn như short chỉ số S&P 500 hay long chỉ số biến động (volatility), rất nhiều quỹ vẫn chọn cách mua vàng. Tại sao? Bởi vì nó đem lại cho họ sự bảo vệ trên diện rộng đối với những rủi ro chưa biết đến, chứ không phải một loại phòng vệ có mục tiêu chống lại các rủi ro đã được xác định.
Trong những ngày đen tối nhất của tháng Ba, thứ kim loại mà đúng ra là nơi trú ẩn an toàn lại sụt giảm song hành với thị trường chứng khoán và các loại tài sản rủi ro khác khi mà các nhà đầu tư đổ xô đi bảo đảm cho thanh khoản và mua các loại chứng khoán Kho bạc ngắn hạn. Kể cả nếu ta bỏ qua sự thất bại này, vàng vẫn là một thứ công cụ khá “cùn” so với các dạng khác của phòng vệ danh mục.
Thế nhưng giá vàng đã leo thang đến mức cao 8 năm lên trên 1,800 USD/ounce. Nhà đầu tư tại các quỹ ETF đã xây một cái kho chưa đủ lớn để lấp đầy nhu cầu vàng toàn cầu cho cả một năm. Và các nhân vật tiếng tăm trong giới quỹ đầu tư trong đó có cả Paul Singer, David Eihorn và Crispin Odey đã nói với những người ủng hộ rằng họ đang “bullish” đối với vàng.
Nguyên nhân đầu tiên thường được đưa ra là mối quan hệ nghịch chiều của vàng với lợi suất thực. Là một loại tài sản không sinh ra lợi suất với đặc tính được tin là có thể bảo vệ khỏi lạm phát, vàng có xu hướng tăng khi các ngân hàng trung ương trở nên ôn hòa hơn trong việc đối diện với tăng trưởng chậm. Nhưng cũng có các cách chuẩn xác hơn để đạt được điều này, ví dụ như qua các hợp đồng hoán đổi lạm phát (Inflation swaps).
Việc giao dịch như vậy sẽ tạo ra rủi ro về đối tác, mà đây chính là lí do thứ hai thường được đưa ra để người ta hướng tới vàng. Nhưng trừ khi chúng ta đang nói về sự sụp đổ của cả hệ thống tài chính toàn cầu, thì tất cả những rủi ro này nều có thể được giải quyết thông qua tài sản bảo đảm và các trung tâm thanh toán bù trừ (Clearing houses).
Thay vào đó, chính sự “cùn” của vàng đã khiến nó trở thành một công cụ hữu dụng. Như đã nói, nó cung cấp sự bảo vệ rộng rãi đối với các rủi ro mà ta chưa xác định được, trong khi Hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng (Credit Default Swap) lại bảo vệ ta khỏi một sự kiện rất cụ thể.
Điều này có thể được minh họa bằng cách nó biến động trong tương quan với các tài sản khác. Trong những giai đoạn bình thường, dữ liệu đầu vào tốt nhất để giải thích cho các biến động trong tích tắc của vàng chính là đồng USD, kể từ đầu thế kỷ XXI, hai tài sản này có mức tương quan với nhau là -0.5.
Nhưng nó không ổn định theo thời gian. Trong thời kỳ căng thẳng cực độ, đặc biệt nếu căng thẳng được coi là nằm bên ngoài nước Mỹ, vàng và đồng USD có thể di chuyển song song. Trên thực tế, vàng thường đi theo chiều ngược lại của yếu tố rủi ro được xác định lớn nhất trên thị trường toàn cầu
Trong lịch sử, các giai đoạn bất ổn gia tăng ở khu vực đồng euro, bao gồm khủng hoảng nợ chính phủ và sau đó là cuộc trưng cầu dân ý của Hy Lạp năm 2015, đã chứng kiến mối liên kết nghịch đảo mạnh hơn bình thường giữa đồng euro và vàng được định giá bằng đồng tiền đó.
Tương tự là trường hợp đồng GBP trong cuộc bỏ phiếu Brexit, khi mối quan hệ toán học giữa đồng bảng Anh và vàng định giá theo GBP đi từ mức trung bình 10 năm của nó là -0.2 lên đến -0.84.
Và nó cũng hoạt động ở cấp độ thống kê. Trên các chỉ số chứng khoán lớn và các loại tiền tệ thanh khoản cao nhất, mối tương quan giữa vàng và tài sản đối ứng trở nên nghịch đảo hơn khi sự biến động của tài sản khác tăng lên.
Bảng dưới đây cho thấy mối tương quan trung bình của vàng trong việc thay đổi trạng thái biến động, với dữ liệu trong hai thập kỷ qua được tổng hợp trên cơ sở 60 ngày của Bloomberg. Đối với tiền tệ, mối tương quan chéo được đo bằng giá vàng tính theo loại tiền đó
Điều này cho thấy bản chất của phòng vệ Vàng thay đổi khi các yếu tố rủi ro thay đổi. Mối bận tâm chuyển từ chiến tranh thương mại sang địa chính trị rồi sang siêu lạm phát, và vàng cung cấp sự bảo vệ đa mục đích mà ta khó có thể đạt được với một trạng thái short chỉ số S&P 500. Vì vậy, trong một thế giới mà virus Corona đang lây lan siêu tốc, chẳng có gì lấy làm lạ khi các quỹ phòng hộ vẫn yêu thích vàng.
Giá trị các khoản vay được điều chỉnh tại các ngân hàng Mỹ đã tăng gấp bốn lần trong hai năm, cho thấy áp lực tài chính đang tích tụ bên dưới bề mặt. Dù tỷ lệ nợ quá hạn mới có dấu hiệu chậm lại, phần lớn cải thiện này chỉ đến từ việc điều chỉnh lại điều khoản cho vay. Trong khi đó, quỹ dự phòng của nhiều tổ chức đang mỏng đi đáng kể, làm dấy lên lo ngại về khả năng chống chịu trước những cú sốc kinh tế sắp tới.
Hôm qua chúng ta đã nói về kết quả đáng thất vọng của cuộc đấu giá trái phiếu kho bạc 20 năm trị giá 15 tỷ đô la – tạo ra một trong những sự kiện đáng chú ý nhất năm 2025 và ngay lập tức gợi ra sự so sánh với cuộc đấu giá trái phiếu kho bạc Nhật Bản 20 năm thảm khốc của chính Nhật Bản vào đầu năm nay, gây ra một đợt bán tháo dữ dội đối với cả trái phiếu và cổ phiếu.
Lạm phát lõi của Nhật Bản tăng 3.5% trong tháng 4, vượt kỳ vọng và ghi nhận tốc độ cao nhất kể từ đầu năm 2023. Diễn biến này làm dấy lên kỳ vọng BoJ có thể nâng lãi suất thêm trong năm nay, dù các yếu tố bên ngoài như thuế quan của Mỹ vẫn là rủi ro lớn.
Từng được xem là thiên đường đầu tư với sức mạnh từ Big Tech và đồng USD vững chắc, thị trường Mỹ giờ đây đang khiến nhiều nhà đầu tư phải đặt dấu hỏi. Khi cổ phiếu châu Âu bứt phá mạnh mẽ và đồng bạc xanh suy yếu, niềm tin vào “chủ nghĩa đặc biệt” của Mỹ bắt đầu lung lay. Phải chăng thời kỳ hoàng kim của Phố Wall đang dần khép lại?
Vào tháng 4, giám đốc nghiên cứu FX của Deutsche Bank, George Saravelos đã cảnh báo, 'Chúng ta đang ở giữa sự thay đổi chế độ thị trường đáng kể', làm dấy lên lo ngại về cuộc khủng hoảng niềm tin vào đồng đô la.
Ngân hàng Trung ương Nhật Bản không thấy cần thiết phải điều chỉnh mạnh kế hoạch cắt giảm mua trái phiếu, trừ khi thị trường biến động nghiêm trọng. Thành viên Hội đồng Asahi Noguchi nhấn mạnh BoJ nên tiếp tục tăng lãi suất một cách thận trọng, do lạm phát hiện tại chủ yếu đến từ chi phí nhập khẩu chứ không phải tăng lương bền vững. Lạm phát dịch vụ vẫn chưa vượt 2%, khiến mục tiêu giá ổn định dài hạn vẫn còn xa.
Bắc Kinh đang mở rộng cách tiếp cận tài khóa bằng cách tính đến giá trị tài sản nhà nước, không chỉ riêng nợ công. Cách tiếp cận mới này có thể giúp Trung Quốc biện minh cho việc chi tiêu lớn hơn, dù tổng nợ đã cao. Tuy nhiên, hiệu quả sẽ phụ thuộc vào khả năng quản lý minh bạch và khai thác tài sản công một cách bền vững.