JPMorgan Research: Tiêu điểm Mỹ - việc làm trong ngành sản xuất và cán cân thương mại

JPMorgan Research: Tiêu điểm Mỹ - việc làm trong ngành sản xuất và cán cân thương mại

Như Quỳnh

Như Quỳnh

Junior Analyst

21:34 21/04/2025

Nhận định của JPMorgan New York.

Một trong những mục tiêu của các mức thuế nhân Ngày Giải phóng là khuyến khích doanh nghiệp đưa hoạt động sản xuất trở lại Mỹ, qua đó thúc đẩy việc làm trong ngành. Trong một báo cáo trước đây về chính sách thương mại dưới thời chính quyền Trump, JPMorgan từng nhận định rằng mục tiêu này sẽ khó đạt được hơn so với việc cắt giảm nhập khẩu hay thâm hụt thương mại. Khi đó, JPMorgan kết luận rằng một cấu trúc thuế quan rộng hơn sẽ hỗ trợ tốt hơn mục tiêu phục hồi sản xuất nội địa, bằng cách ngăn chặn xu hướng chuyển dịch thương mại sang các quốc gia cung ứng chi phí thấp không chịu thuế. Các mức thuế hiện tại phù hợp hơn với nhận định đó. Trong phân tích lần này, JPMorgan tập trung đánh giá diễn biến của khu vực sản xuất tại Mỹ và đồng thời xem xét sự thay đổi trong cán cân thương mại. Kết quả phân tích tiếp tục củng cố quan điểm trước đây, đồng thời phù hợp với các tài liệu thực nghiệm cho thấy: tăng trưởng năng suất do tiến bộ công nghệ và tự động hóa là nguyên nhân chính khiến việc làm trong ngành sản xuất suy giảm theo thời gian.

Dữ liệu chi tiết về việc làm có trả lương tại Mỹ được ghi nhận từ năm 1939, khi tỷ trọng việc làm trong ngành sản xuất ở mức khoảng 30%, đã giảm so với ước tính khoảng 40% vào đầu thế kỷ 19. Nhu cầu sản xuất tăng mạnh trước thềm Thế chiến II, đạt đỉnh 39% vào năm 1943. Tuy nhiên, khi khu vực dịch vụ phát triển, việc làm trong sản xuất liên tục suy giảm, xuống mức thấp kỷ lục 8% vào quý I/2025. Trong các thập niên 1950–1960, Nhật Bản là nền kinh tế định hướng sản xuất nhiều hơn, trong khi Mỹ vẫn duy trì tỷ trọng việc làm cao hơn so với Pháp. Những khác biệt này có thể đến từ nhiều yếu tố vượt ra ngoài phạm vi của bài phân tích. Tuy nhiên, xu hướng giảm tỷ trọng việc làm sản xuất là điểm chung ở cả bảy nền kinh tế phát triển, dữ liệu khá chuẩn hóa (về mức 100 năm 1991), với mức giảm từ 38% (Nhật Bản) đến 58% (Vương quốc Anh). Riêng tại Mỹ, tỷ trọng việc làm sản xuất đã giảm 50% trong vòng 34 năm qua.

Dù xu hướng việc làm suy giảm, không phải tất cả các nền kinh tế phát triển đều phải đối mặt với thâm hụt thương mại kéo dài. Đức duy trì thặng dư thương mại suốt 25 năm qua, trong khi Nhật Bản thì không. Mỹ đã ghi nhận thâm hụt thương mại dai dẳng ngay cả trước khi Trung Quốc gia nhập WTO vào năm 2001. Tây Ban Nha – vốn không nổi bật về sản xuất – lại ghi nhận thặng dư thương mại trong 15 năm qua, chủ yếu nhờ thặng dư thương mại dịch vụ (du lịch). Điều này cho thấy các lực tác động đến việc làm trong sản xuất và cán cân thương mại có tính chất phức tạp và đa chiều.

Một yếu tố then chốt trong xu hướng sụt giảm việc làm ngành sản xuất là sự gia tăng mạnh mẽ về năng suất. Trong sáu thập kỷ kể từ năm 1949, năng suất ngành sản xuất tăng đáng kể, khiến mỗi lao động tạo ra nhiều giá trị hơn. Mức tăng năng suất trong ngành này vượt trội so với toàn nền kinh tế từ giữa thập niên 1980 đến trước khủng hoảng tài chính toàn cầu (GFC). Những cải thiện này chủ yếu đến từ tự động hóa và áp dụng các quy trình sản xuất thâm dụng vốn hơn. Trong hai thập kỷ gần đây, năng suất ngành sản xuất có dấu hiệu trì trệ so với mặt bằng chung, trùng khớp với mức giảm nhẹ trong tỷ trọng việc làm – từ khoảng 10% xuống còn 8% hiện nay.

JPMorgan

Broker listing

Cùng chuyên mục

Forex Forecast - Diễn đàn dự báo tiền tệ